Tại Việt Nam Húy_kỵ

Việt Nam có lịch sử một ngàn năm đô hộ của Trung Quốc nên chịu ảnh hưởng nền văn hóa Trung Quốc, trong đó có văn hóa "húy kỵ". Lệnh kiêng húy đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được ban hành tháng sáu năm Kiến Trung thứ tám (1232) dưới thời Trần Thái Tông[1]. Vua nhà Trần biện lẽ là ông tổ nhà Trần tên là "Lý" nên ai tên họ là Lý phải đổi tên. Lệnh vua đã ban thì thần dân phải thi hành; và đương nhiên con cháu nhà Lý phải từ bỏ gốc gác họ hàng của mình để được tồn tại. Lệnh kiêng húy do vua ban ra để giữ vẻ uy nghi của ngai vàng, kẻ nào phạm húy sẽ bị tru di tam tộc.

Sang triều Hậu Lê, ngày 20 tháng 4 âm lịch năm 1428, sau khi lên ngôi được 5 ngày[2] Lê Thái Tổ đã ban bố ngay lệnh kiêng húy rộng rãi nhất lịch sử[3]: Kiêng đến nhiều loại húy: quốc húy (gồm chính húy và thường húy), tên húy, gia tộc kính húy và dân gian húy[4].

Và từ đó đến mãi thời nhà Nguyễn, lệnh kiêng húy tiếp tục duy trì, nhiều thời được áp dụng một cách khắt khe. Do kiêng húy mà những danh nhân đất Việt đã một thời biến âm thành tên khác như Ngô Thì Nhậm (Ngô Thời Nhiệm), Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh), Châu Thượng Văn (Chu Thượng Văn)[cần dẫn nguồn]...

Húy kỵ dưới triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt Quốc húy dưới thời các vua Nguyễn, khá phức tạp. Húy kỵ đã được nâng lên thành Quốc luật, làm thay đổi một phần ngôn ngữ.

Kỵ húy đối với sĩ tử khi đi thi thì có hai hạng: khinh húy và trọng húy. Khinh húy là phải kiêng tên cha mẹ chú của nhà vua. Trọng húy là kiêng tên của vua. Ai phạm khinh húy trong bài thi thì bị đóng gông phơi nắng ba ngày, xong lại suốt đời bị cấm đi thi. Phạm trọng húy thì không những thí sinh bị mà những thày dạy học cũng bị phạt vì lỗi đã không chu toàn trách nhiệm giáo dục. Ai đang làm quan mà viết sớ phạm trọng húy cũng bị phạt như giáng cấp. Triều Gia Long luật pháp bắt đánh 80 trượng.[5]

Việc kỵ húy ảnh hưởng không những ở lời nói cửa miệng khi nói trại âm, mà ngay chữ viết, nhất là những công văn chữ Nho phải thay đổi, khi thêm bớt nét, khi thì dùng chữ cận âm hay đồng nghĩa để tránh phạm húy. Cũng căn cứ vào những sửa đổi trong văn tự này mà các học giả sau này có thể thẩm định niên đại của một bản văn dựa theo những cách viết kỵ húy.

Một số nhà sử học nước ta kiêng húy chữ "Tông" (Tên húy vua Thiệu Trị) mà đã đổi tên của các vua nước ta trước đó. Ví dụ:

BẢNG LIỆT KÊ NHỮNG CHỮ QUỐC HÚY THỜI NGUYỄN THƯỜNG GẶP
Âm chính
  • câm
  • mai
  • hoàng
  • nguyên
  • lan
  • tần
  • lỵ
  • thụy
Âm trại
  • kim
  • mơi
  • huỳnh
  • nguơn
  • lang, lam
  • tờn
  • lợi
  • thoại
Âm chính
  • lĩnh
  • chu
  • thụ
  • thư
  • dung
  • hoàn
  • phúc
Âm trại
  • lãnh
  • châu
  • thọ
  • thơ
  • dong
  • huờn
  • phước
Âm chính
  • ánh
  • chủng
  • đang
  • đảm
  • kiểu
  • hoa
  • thật
  • miên
Âm trại
  • yên, yếng, ảnh
  • chưởng
  • đương
  • đởm
  • cảo
  • huê
  • thiệt
  • mân
Âm chính
  • chính
  • tông
  • tuyền
  • hằng
  • hạo
  • nhậm
  • hồng
  • kính
Âm trại
  • chánh
  • tôn
  • toàn
  • thường
  • hiệu
  • nhiệm
  • hường
  • kiếng
Âm chính
  • thì
  • hài
  • chân
  • đường
  • cảnh
  • lân
  • san
  • điều
Âm trại
  • thời
  • hia
  • chơn
  • đàng
  • kiểng
  • liên
  • sơn
  • đều

Ngoài tên riêng là nguyên tổ và vua, nhiều khi tên của những người thân thuộc với vua cũng được kiêng như: cha, mẹ, vợ, con, anh, em,... và có khi đến hàng ông nội, bà nội, tên giả, chữ đệm của vua cũng được kiêng.

Hiện tượng biến đổi từ

Ngoài hiện tượng nói trại do kiêng húy, nhiều danh từ khác cũng được nói trại so với ngôn ngữ phổ thông như: đàn (nhạc cụ) thành đờn, sinh (đẻ) thành sanh, chính (chính trị, hành chính, chính sách, chính nghĩa,...) thành chánh, nàng thành nường, phụng (loài chim) thành phượng, long thành luông,tụng kinh thành tuộng canh, thủy thành thoải, ba thành bơ, v.v.

Thay đổi địa danh

Từ thời nhà Lê, vì kiêng tên chúa Trịnh Giang mà Cẩm Giang và Võ Giang gọi là Cẩm GiàngVõ Giàng. Cũng theo lệ đó vì tên chúa Tây Vương Trịnh Tạc mà Tây Châu phải đổi là Nam Châu.[6] Vào đầu thời nhà Nguyễn phong tục này tiếp tục không những được duy trì mà còn mở rộng, vua Gia Long bắt kiêng cả tên con dâu 15 tuổi mới cưới về tên là Hồ Thị Hoa, do đó, chợ Đông Hoa phải đổi là chợ Đông Ba, cầu Hoa đổi là cầu Bông, huyện Hoa Khê (Phú Thọ) đổi thành huyện Cẩm Khê và huyện Mộ Hoa (Quảng Ngãi) đổi thành huyện Mộ Đức. Do chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ chùa "Thiên Mụ" thành chùa "Linh Mụ", huyện Thiên Thi (Hưng Yên) đổi thành huyện Ân Thi, huyện Thiên Bản (Nam Định) đổi thành huyện Vụ Bản và huyện Thiên Lộc (Hà Tĩnh) đổi thành huyện Can Lộc. Có nhiều từ ngữ khác, nhất là địa danh do kiêng húy mà biến đổi, nay đã thành quen thuộc: Trấn Thanh Hoa, đến thời Minh Mạng chuyển thành tỉnh, bị gọi là tỉnh Thanh Hóa[3], Kỳ Hoa chuyển thành Kỳ Anh hay sông Minh Lương (sông Bến Hói) đổi thành sông Hiền Lương, xã Trà Hương (tổng Trà Hương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương) đổi thành Trà Phương, huyện Thanh Đàm đổi thành huyện Thanh Trì (Hà Nội), huyện Vĩnh Ninh phải đổi tên đến hai lần thành huyện Vĩnh Phúc rồi huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa)...

Lệ kỵ húy và vai trò khảo cổ

Trong các văn tịch và di tích cổ, các nhà nghiên cứu lịch sử các nước Á Đông trong khối chịu ảnh hưởng Nho học, trong đó có Việt Nam thường tìm những chữ thêm bớt nét (gọi là khuyết bút)[7] hoặc trại âm để giúp ấn định thời điểm của việc biên chép, tôn tạo vì mỗi triều đại phong kiến lại quy định kỵ húy nhất định.[8] Ví dụ như triều Lê thì văn tịch phải kiêng tên vua Lê Thái Tổ, người khai sáng ra triều đại đó vốn là "Lợi", nhưng sang thời nhà Nguyễn thì không còn kiêng chữ Lợi trong các các văn kiện nữa, và theo đó có thể phân biệt rõ ràng thư tịch thời Lê với thời Nguyễn. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế ví dụ như những công văn thì việc ghi chép phải giữ phép tắc rõ ràng nhưng trong phạm vi riêng tư hạn hẹp, những trước tác góp nhặt thì không. Hơn nữa nhiều văn bản khi sao lại vào một thời điểm khác thì lại bỏ những phép xưa và lồng vào đó phép kỵ húy đương thời, dễ gây ra ngộ nhận về thời điểm tác phẩm.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Húy_kỵ http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://www.itscj.ipsj.or.jp/ISO-IR/202.pdf http://hopluu.net/a2499/ten-chu-han-cua-ho-quy-ly-... http://baotangnhanhoc.org/vi/index.php?option=com_... http://project1.caryacademy.org/ChineseHistory/200... http://www.dunglac.org/upload/book/f__1191579231.h... http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=765&Cati... http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=935&Cati... http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/tai-lieu-pho-ca...